Kinh Pháp Bảo Đàn - Hòa Thượng Tuyên Hóa Giảng
Tải Kinh Pháp Bảo Đàn PDF về đọc http://bit.ly/KinhPhapBaoDanPDF
Ngài Lục Tổ Huệ Năng (638-713), đắc đạo lúc chưa xuất gia, là vị Tổ thứ sáu của Thiền tông, môn đệ và pháp tự của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Trước Ngài Huệ Năng, Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đến đời Sư, thiền bắt đầu có những đặc điểm riêng của Trung Quốc. Ngài Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức là truyền nhân. Tuy nhiên Sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Ngài Thanh Nguyên Hành Tư và Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn bộ các dòng Thiền về sau. Cả hai dòng này cũng được truyền đến Việt Nam qua các vị như Ngài Thảo Đường, Ngài Nhất Cú Tri Giáo, Ngài Vô Ngôn Thông và Ngài Chuyết Công. Sư là tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là Kinh, một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp bảo đàn kinh mà người ta biết được ít nhiều về Ngài Huệ Năng. Sư họ Lô, sinh trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, lớn lên giúp mẹ bằng cách bán củi. Một hôm, trong lúc bán củi, nghe người ta tụng kinh Kim cương, Sư bỗng nhiên có ngộ nhập. Nghe người đọc kinh nhắc đến Tổ Hoằng Nhẫn, Sư liền đến tìm học. Ngài Hoằng Nhẫn nhận ra ngay căn cơ của Sư, nhưng không truyền pháp ngay, bắt tiếp tục chẻ củi, vo gạo. Truyện nổi tiếng về việc truyền tâm ấn cho Ngài Huệ Năng và việc phân đôi hai phái Thiền Nam-Bắc được kể lại như sau: Ngài Hoằng Nhẫn biết tới lúc tìm người kế thừa nên bảo học trò mỗi người viết kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ. Cuối cùng chỉ có Ngài Thần Tú, một đệ tử với tri thức xuất sắc mới dám làm. Ngài Thần Tú viết bài kệ, so sánh thân người như cây Bồ-đề và tâm như tấm gương sáng và người tu hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Sư đang làm việc trong bếp, nghe đọc bài kệ biết người làm chưa Kiến tính. Sư cũng nhờ người viết bài kệ của mình như sau:
Bồ-đề vốn chẳng cây,
Gương sáng cũng không đài,
Xưa nay chẳng một vật,
Bụi trần bám vào đâu?
Nghe bài kệ, Tổ Hoằng Nhẫn biết căn cơ của Sư vượt hẳn Ngài Thần Tú, nhưng sợ di hại nên nửa đêm gọi Sư vào thất và thuyết trọn kinh Kim cương cho Sư. Đến câu "Đừng để tâm vướng víu nơi nào" (ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm), Sư hoát nhiên đại ngộ. “Huệ Năng ngay đó đại ngộ, thấy dược tất cả các pháp đều không lìa tự tánh. Bèn thưa với Tổ rằng: “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt, nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, nào ngờ tự tánh vốn không dao động, nào ngờ tự tánh hay sinh muôn pháp”. Mọi người nên biết rằng khi Ngài Huệ Năng chưa đến Huỳnh Mai, khi nghe người đọc kinh đã khai ngộ. Lúc vừa gặp Ngũ tổ, trong đối đáp đã thể hiện rõ kiến địa. Sau đó đến nhà trên viết bài kệ trên vách tường hành lang đã hiển lộ cảnh giới “nhất thiết pháp không”, ngộ cảnh sáng rỡ, rõ ràng. Đến bây giờ nghe Ngũ tổ giảng kinh Kim Cang, được đại ngộ “tất cả pháp không lìa tự tính”. Đến đây mới thật sự là triệt ngộ. Như vậy quá trình giác ngộ của Ngài Lục Tổ Huệ Năng trải qua ba giai đoạn, ba tầng bậc. Khi Ngũ tổ thăm dò sự chứng ngộ của Ngài Huệ Năng, Ngài nói: “Gạo đã trắng từ lâu, chỉ còn thiếu giần sàng” thể hiện sự tự tri nhận về mình rằng ngộ tuy đã ngộ, nhưng công phu, kiến địa vẫn vẫn chưa tinh thuần, vì thế Ngũ tổ mới giảng kinh Kim Cang cho Ngài Huệ Năng nghe. Như trên đã nói, nội dung chủ yếu của bài kệ trình kiến giải của Ngài Huệ Năng là “nhất thiết pháp không” (tất cả pháp đều là không. Đều này hàn toàn phù hợp với kinh Kim Cang. Khi nghe được kinh Kim Cang, tiến tới một bước, đại ngộ “nhất thiết pháp bất ly tự tính” (tất cả các pháp không lìa tự tinh). Sự đại ngộ này đã vượt qua sự khai ngộ “nhất thiết pháp không”. Nếu nhất thiết pháp không có thể lý giải bằng tư tưởng bát nhã của “Trung Quán’, nhưng với “nhất thiết pháp bất ly tự tính” thì đã vượt ra ngoài phạm vi của giáo thuyết, không còn dùng văn tự để diễn bày, tức không thể dùng lý luận của về ‘pháp không” để lý giải.” Ngũ tổ truyền y bát cho Sư và khuyên đi về phương Nam. Khi tiễn Sư xuống thuyền, Tổ muốn tự chèo đưa Sư sang sông, Sư bèn nói: "khi mê thầy độ, ngộ rồi tự độ" và tự chèo qua sông. Suốt 15 năm sau, Sư ở ẩn, và trong thời gian này vẫn là cư sĩ. Sau đó, Sư đến chùa Pháp Tính ở Quảng Châu. Đó là nơi sản sinh công án nổi tiếng "chẳng phải gió, chẳng phải phướn". Sau khi Sư chen vào nói "tâm các ông động" thì Ngài Ấn Tông, vị sư trụ trì của chùa hỏi Sư "Nghe nói y pháp Hoàng Mai đã truyền về phương Nam, phải chăng là hành giả?" Lúc đó Sư mới nhận mình là truyền nhân của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Ngài Ấn Tông sai người cạo đầu cho Sư, cho Sư gia nhập Tăng-già rồi xin nhận Sư làm thầy. Sau đó, sư bắt đầu giáo hoá ở chùa Pháp Tính, về sau Ngài về Bảo Lâm tự ở Tào Khê và thành lập Nam tông.
#KinhPhápBảoĐàn #HòaThượngTuyênHóa #ThiềnTông #TổSưThiền