Mời các bạn xem thêm quyển "Bạch Dương Tổ Sư Lược Truyện": http://www.mediafire.com/view/?gnizdmo4anvrorg *** Tam-kỳ phổ-độ *** Một Nguyên có 129600 năm, là một vòng luân-hồi của trời đất, chia làm 12 Hội, một Hội là 10800 năm. Hội Tý khai thiên, Hội Sửu tịch địa, Hội Dần sinh người và vạn vật. Dương sinh vào Tý, cực tại Tỵ; âm sinh vào Ngọ và cực tại Hợi. Từ hội Tý đến hội Tỵ là sáu hội thuộc dương, từ vô sanh hữu, nhất-bổn tán vạn-thù. Từ hội Ngọ đến hội Hợi là sáu hội thuộc âm, vạn vật từ hữu trở về vô, vạn-thù quy nhất-bổn. Đó là khí số của vòng Thái-Cực, như một ngày có 12 thì (một thì là 2 giờ), sáu thì thuộc dương là ngày, và sáu thì thuộc âm là đêm, ngày đêm tuần hoàn không ngừng. Thiên khai vào hội Tý, mạt vào hội Tuất. Điạ tịch vào hội Sửu, mạt vào hội Dậu. Nhân sinh vào hội Dần, mạt vào hội Thân. Tý, Sửu, Dần ba hội thuộc "Thành"; Mẹo, Thìn, Tỵ ba hội thuộc "Trụ"; Ngọ, Mùi, Thân ba hội thuộc "Hoại"; Dậu, Tuất, Hợi ba hội thuộc "Không". Nay khí số đang ở giữa hai hội Ngọ và Mùi. Ngọ Mùi giao tiếp, âm tăng dương giảm, vạn vật dần dần đi từ hữu trở về vô, thuộc hai thời kỳ Hoại và Không. Đến thời kỳ Hoại, loài người và vạn vật diệt trước, kế tiếp là địa và sau cùng mới đến thiên. Cho nên trước khi trời đất bị hoại, Thượng-Đế giáng Đạo độ nhân trước, sau mới độ Hà-hán Tinh-đẩu (Là chư Tiên trong vòng Thái-Cực Khí-Thiên). Thời kỳ Vua Phục-Hy là thời kỳ Ngọ sơ, Thượng-Đế bắt đầu giáng Đạo, đó là thời kỳ phổ-độ thứ nhất, ví như cây cỏ đang mọc vào lúc Xuân. Xuân chủ mộc, sắc của mộc trong ngũ-hành thuộc xanh (thanh), nên thời kỳ này gọi là Thanh-Dương-Kỳ. Phật ứng vận trong thời kỳ này là Nhiên-Đăng Cổ-Phật. Thời kỳ phổ-độ thứ hai ứng vào thời Đông-Châu. Trong thời kỳ này, Đạo chia làm tam-giáo là Phật, Lão và Nho. Đức Lão-Tử độ Khổng-Tử. Đức Khổng-Tử cùng ba ngàn đệ-tử chu du liệt quốc, giảng đạo-đức thuyết nhân-nghĩa. Đức Phật Thích-Ca thọ giáo nơi Nhiên-Đăng Cổ-Phật, ứng vận bên Tây-Trúc. Thời kỳ này ví như mùa Hạ, vạn vật đang trổ bông kết trái. Hạ chủ hỏa, sắc của hỏa trong ngũ-hành là màu đỏ (xích), nên thời kỳ này gọi là Hồng-Dương-Kỳ. Phật Thích-Ca ứng vận trong thời kỳ này, và chia làm chánh-pháp, tướng-pháp, mạt-pháp ba thời kỳ, mỗi kỳ là 1000 năm. Hai thời kỳ chánh-pháp và tướng-pháp đã qua, nay đương thời kỳ mạt-pháp, tam-giáo suy đồi. Nho trọng lối học từ-chương mà chạy đường công danh; Lão thì thiên về vẽ bùa niệm chú mà chạy về pháp thuật; Phật thì chú trọng về gõ mõ tụng kinh hay chắp không ngồi thiền. Ngũ-giáo đều tương tự như nhau, số chân tu ngộ Đạo rất ít. Cho nên đến thời kỳ mạt-pháp, chánh-pháp lại hiện. Thời kỳ thứ ba là thời phổ-độ Bạch-Dương, thời kỳ này là thời kỳ chót, cũng gọi là mạt-hậu nhất-trước, ví như vạn vật đang kết trái vào mùa thu. Thu chủ kim, sắc của kim nơi ngũ-hành là trắng (bạch), nên thời kỳ này gọi là Bạch-Dương-Kỳ. Phật ứng vận là Phật Di-Lặc. Trong hai thời kỳ Thanh-Dương và Hồng-Dương, người tu Đạo đều phải xuất gia. Vào thời kỳ Bạch-Dương, Đạo giáng thứ-dân, tâm-pháp phổ-truyền, tại gia hay xuất gia, không câu nệ hình thức, đều có thể tu thành chánh quả. Chẳng những thế, những vị chân tu trong hai thời kỳ phổ-độ trước, khổ công tu luyện nhưng không thành, hoặc những vị trung-thần hiếu-tử hay tiết-phụ liệt-nữ được phong Thần trong vòng thiên-đạo Khí-Thiên, cũng như giới quỷ trong cõi âm-phủ, nếu có công-đức đều có thể cầu Đạo để thoát vòng luân-hồi. Đó là Tam-Tào phổ-độ trong thời kỳ Bạch-Dương. Giới thiệu Đạo trường Phát Nhất Sùng Đức Quốc Tế (Sub Việt) http://www.youtube.com/watch?v=gdnlJjJsBac&feature=plcp&noredirect=1